Sao Thái Dương – Cung Mệnh

Sao Thái Dương nhập cung Mệnh có những đặc điểm đáng chú ý về ngoại hình và tính cách. Những người này thường có khuôn mặt trái xoan hoặc tròn, mắt nhỏ và hấp dẫn. Da hồng nhuận, hồng vàng hoặc đỏ tím. Nếu Thái Dương nhập miếu chi địa đi vào cung Mệnh, người này sẽ có sắc mặt hồng nhuận.

Tùy theo cung mà Thái Dương nhập, người này có những đặc điểm khác nhau. Nếu Thái Dương nhập cung Ngọ, người này có thân hình cao lớn và nhã nhặn. Nếu Thái Dương nhập hãm cung, người này có da nhợt nhạt và vóc dáng trung bình hoặc thấp. Nếu Thái Dương nhập Miếu Vượng chi địa, người này không gặp sát tinh. Nếu Thái Dương hoặc Cự Môn nhập Mệnh không gặp sát tinh, người này có thể có trình độ đại học.

Ở cung Ngọ, người này có địa vị lớn và giàu có. Ở cung Sửu, Mùi, nhật và nguyệt cùng sáng, được gọi là Hốt Nguyệt Hốt Nhật. Ở cung Thân, người này làm việc có đầu nhưng không có đuôi. Ở cung Dậu, người này có vẻ ngoài xinh đẹp nhưng bên trong trống rỗng. Ở bốn cung Tuất, Hợi, Tý, Sửu, người này rất bận rộn và công việc không thực tế.

Nếu Thái Dương nhập Mệnh và gặp sát tinh, người này thường là công chức nhà nước. Nếu Thái Dương nhập Miếu Vượng chi địa lại có Thái Dương Hóa Kị, thì đây là một điềm phúc. Vì Hóa Kị có thể hóa giải ánh sáng tiềm ẩn của người đó nếu không muốn lộ liễu.

Thái Dương cũng có tính trừng phạt, khắc chế, vì vậy những người có Thái Dương nhập cung Mệnh thường có mối quan hệ khắc cha hoặc không có duyên với cha từ khi còn trẻ. Khi trưởng thành, họ có thể khắc chồng đối với nam giới. Nếu hãm địa nhập Mệnh, cha của người này sẽ mất sớm.

Đối với những người có Thái Dương nhập Mệnh, bất kể nam hay nữ, khi về già sẽ khắc con hoặc không có con. Nơi ở của họ thường nằm trên một khu đất cao, có ánh sáng tốt. Nếu Thái Dương nhập cung Mệnh và Thiên Đồng nhập cung Phu Thê, những người này thường gặp nhiều may mắn và có mối quan hệ tình yêu lãng mạn.

Nếu Thái Dương – Thái Âm giáp Mệnh hoặc Tài, có thêm cát tinh, người này không cao quý nhưng lại giàu có. Nếu gặp Dương, Đà xung thủ, người này dễ thành tăng đạo. Nếu Thái Âm nhập Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi và Thái Dương nhập Thân, Dậu, Tuất, Hợi, thì không có sự huy hoàng sáng sủa, được gọi là “Nhật nguyệt phản bối cách”.

Nếu nhật nhập Tỵ, nguyệt nhập Dậu, tọa mệnh tại Sửu, gọi là “Nhật nguyệt bính minh cách”. Kinh những người sinh năm Tân, Ất là hợp với người sinh năm Bính, Tân là chủ quý và người sinh năm Đinh là chủ phú. Nếu gặp lục sát tinh, thì bình thường. Nhật nhập Mão, nguyệt nhập Hợi, tọa mệnh tại Mùi, là “Minh châu xuất hải cách”. Được ghi tên trên bảng vàng, người này có tiền bạc và danh lợi song toàn.

Nếu nhật, nguyệt cùng nhập cung Điền Trạch, vì nhật, nguyệt thích cư tại mộ khố chi địa, vì vậy đất đai của người đó tốt lành, gọi là “Nhật nguyệt chiếu bích cách”. Nếu nhật, nguyệt cùng nhập cung Mùi, tọa mệnh tại Sửu, thì người này là hầu bác chi tài, nhưng phải hóa cát mới được. Nếu tam phương không có cát tinh, ngược lại là hung. Nếu tọa mệnh tại Tý, Ngọ, Thìn, Tuất là may mắn, mà những người sinh năm Bính, Tân đều là may mắn, nếu lại gặp Xương, Khúc giáp thì người này cao quý hiển hách.

Nếu nhật, nguyệt, khoa, lộc cùng nhập Sửu, Mùi, thì người này nhất định là hầu bác chi bối. Nếu Thái Dương và Thái Âm cùng nhập cung Sửu, Mùi, thì sẽ có sự ảnh hưởng đến nhau, kéo nhau xuống, làm cho tính bức xạ của mặt trời và tính sinh khí của Thái Âm không thuần khiết, cho nên gọi là “Hốt âm hốt dương”.

Thái Dương tại hai cung Thìn, Tuất nhất định phải nằm đối với Thái Âm vì chúng nằm đối nhau mà không phải quan hệ đồng cung, nên có thể dung hòa. Tại cung Thìn gọi là “Nhật du long môn”, tại cung Tuất gọi là “Nhật nguyệt phản bối”, nếu gặp thêm cát tinh thì sẽ có đạt được thành tựu.

Nếu nhật, nguyệt cùng nhập cung Tật Ách hoặc cung Mệnh, mà gặp Không Vong thì người này dễ bị gù lưng, mù mắt. Nếu đồng cung với Thái Âm, gặp thêm tam cát hóa, mà cung Phúc Đức có Hóa Lộc, thì người này giàu có bộc phát.

Nếu đồng cung với Cự Môn, thì người này có khuôn mặt trái xoan, tầm vóc trung bình, cường tráng và phóng khoáng. Sắc mặt trắng đỏ hoặc đỏ vàng, khi về già sắc mặt đỏ tía. Mạnh mẽ, năng động, cá tính hòa sảng, không quan tâm đến lỗi lầm của người khác nhưng dễ nổi giận. Người này chăm chỉ và bận rộn, nhưng bên ngoài thì mang một hình ảnh tốt.

Nếu Thái Dương và Cự Môn tại Dần, Thân cùng nhập cung Mệnh, do Cự Môn là ám tinh, sẽ tiêu trừ ánh sáng mặt trời. Tại cung Dần thì tốt hơn tại cung Thân. Tổ hợp này có đặc điểm chính là sự truyền bá giao tiếp và thích quan sát mối quan hệ với các chủng tộc khác. Nếu Cự Môn Hóa Kị, người này chủ về lời nói thị phi nhưng thích đảm nhiệm các công việc liên quan.

Nếu Thái Dương tại hai cung Tỵ, Hợi và nằm đối với Cự Môn thông thường, thì tại cung Tỵ tốt hơn cung Hợi. Người xưa cho rằng Thái Dương của cung Tỵ là “Nhập Điện”, nếu gặp cát tinh thì người này có thể trở thành đại quý, nếu gặp hung tinh thì có thể trở thành hạ sĩ của cung Công Khanh Môn. Thái Dương của cung Hợi lạc hãm, gọi là “Thất Huy”, khi nằm đối với Cự Môn, người này sẽ là chủ nhân của những người góa bụa và rắc rối.

Nếu Thái Dương, Thiên Lương cùng nhập cung Mão, Dậu, tại cung Mão gọi là “Nhật chiếu lôi môn”, người sinh ngày này thì cao quý điềm đạm. Tại cung Dậu, Thái Dương lạc chãm, gọi là “Lạc Nhật”, vì vậy người xưa cho rằng “Quý mà không lộ, đẹp mà không thực”.

Thái Dương tại hai cung Tý, Sửu thì người này có tính cách trung thực, hào sảng, cường tráng, phóng khoáng, có phúc có thọ. Tuy nhiên, tính cách này có thể dễ nóng giận. Người này chăm chỉ và bận rộn, nhưng bên ngoài thì mang một hình ảnh tốt.

Nếu Thái Dương, Cự Môn tại Dần, Thân cùng nhập cung Mệnh, do Cự Môn là ám tinh, sẽ tiêu trừ ánh sáng mặt trời, vì vậy tại cung Dần tốt hơn tại cung Thân. Tổ hợp này có đặc điểm chính là sự truyền bá giao tiếp và có thể dùng để quan sát mối quan hệ với các chủng tộc khác. Nếu Cự Môn Hóa Kị, người này chủ về lời nói thị phi nhưng thích đảm nhiệm các công việc liên quan.

Thái Dương không kị các hung sát tinh, gặp sát tinh thì người này vất vả. Nếu gặp các sao Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, người này không được giàu sang lâu dài.

Nếu Thái Dương cư Mão, Kình Dương cư Dậu trong đại hạn hoặc lưu niên, người này không tránh khỏi phải ngồi tù. Nếu đồng cung với Hỏa Tinh, người này có thể mắc bệnh về mắt hoặc rơi lệ. Đặc biệt nên tránh nhập vào các cung Phu Thê, Phụ Mẫu, Tử Nữ.

Thái Dương nhập Mệnh và có Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật giáp mệnh, người này sẽ có địa vị cao quý. Nếu hội chiếu với các cát tinh Tam Đài, Bát Tọa Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Tả Phù, Hữu Bật, người này sẽ có sự nghiệp thăng tiến và phú quý.

Nếu Thái Dương nhập Mệnh và gặp nhiều cát tinh, sẽ có nhiều may mắn. Ngược lại, nếu gặp nhiều hung tinh, sẽ có nhiều rủi ro. Nếu nhật, nguyệt đồng cung tốt thì rất tốt.

Nếu nhật, nguyệt cùng nhập cung Kình Dương, Đà La, người này sẽ khắc với người thân. Nếu Thái Dương hay Thái Âm lạc hãm và gặp Hóa Kị, người này sẽ thiếu sự giáo dục và dạy dỗ, không tránh khỏi ngồi tù.

Nếu Thái Dương, Thái Âm tại cung Sửu nhập cung Đại Hạn, người này sẽ nhiều lần giàu lên một cách bộc phát, khiến người khác kinh ngạc. Đặc biệt, nếu Hóa Lộc nhập Thân Mệnh tại cung Điền Trạch hoặc nhập cung Thân Mệnh tại cung Phúc Đức, người này sẽ trở nên giàu có và phát đạt.

Nếu nhật, nguyệt nhập cung Tật Ách hoặc cung Mệnh và gặp Không Vong, người này dễ bị gù lưng và mù mắt. Nếu đồng cung với Thái Âm và gặp thêm tam cát hóa, cùng với cung Phúc Đức có Hóa Lộc, người này sẽ giàu có và bộc phát.

Nếu đồng cung với Cự Môn, người này có khuôn mặt trái xoan, tầm vóc trung bình, cường tráng và phóng khoáng. Sắc mặt trắng đỏ hoặc đỏ vàng, khi về già sắc mặt đỏ tía. Mạnh mẽ, năng động, cá tính hòa sảng, không tính toán tiểu tiết và không quan tâm đến lỗi lầm của người khác, nhưng dễ nổi giận. Người này chăm chỉ và bận rộn, nhưng bên ngoài thì mang một hình ảnh tốt.

Nếu Thái Dương và Cự Môn tại Dần, Thân cùng nhập cung Mệnh, do Cự Môn là ám tinh, sẽ tiêu trừ ánh sáng mặt trời. Tại cung Dần thì tốt hơn tại cung Thân. Tổ hợp này có đặc điểm chính là sự truyền bá giao tiếp và có thể dùng để quan sát mối quan hệ với các chủng tộc khác. Nếu Cự Môn Hóa Kị, người này chủ về lời nói và hoạt động thị phi, nhưng người này phù hợp đảm nhiệm các công việc liên quan.

Thái Dương không kị các hung sát tinh, gặp chúng thì người này vất vả. Nếu gặp các sao Kình Dương, Đà La, Hỏa Tinh, Linh Tinh, người này sẽ không giàu sang lâu dài.

Nếu Thái Dương cư Mão, Kình Dương cư Dậu trong đại hạn hoặc lưu niên, người này không tránh khỏi phải ngồi tù. Nếu đồng cung với Hỏa Tinh, người này có bệnh về mắt hoặc dễ rơi lệ. Đặc biệt, tránh nhập cung Phu Thê, Phụ Mẫu, Tử Nữ.

Thái Dương Hóa Kị không tốt cho mắt. Nếu Thái Dương Hóa Kị, gia hội Thiên Hình, Bạch Hổ, Đại Hạn hoặc Lưu Niên, người này sẽ phá sản, thị phi và vất vả. Nếu Thái Dương Hóa Kị nhập cung Lưu Niên hoặc cung Đại Hạn, người này trong giai đoạn này sẽ ngồi tù.

Tất cả các sao thuộc Nhật Hệ Tinh như Tam Đài, Bát Tọa, Ân Quang, Thiên Quý đều có thể giúp Thái Dương tăng thêm sức mạnh.

Nếu Thái Dương lạc hãm, có Hình, Kị và gặp Âm Sát, Thiên Hư, người này sẽ rất khó khăn.

Phụ nữ có Thái Dương nhập Miếu sẽ có tính cách hào sảng, tốt bụng, thông minh và cao chí hướng. Nếu gặp thêm các sao Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Văn Xương, Văn Khúc, Lộc Tồn, Thiên Mã, Hóa Lộc, Hóa Khoa, Hóa Quyền hội chiếu, người này có phẩm chất cao quý và văn võ toàn tài. Nên sinh vào ban ngày để không có sát tinh.

Nữ mệnh Thái Dương nhập Miếu có điềm lành, lạc hãm là điềm hung. Nên sinh vào ban ngày để có lợi. Nhược điểm của người này là cảm giác suy thụi, tính cách cáu kỉnh và khắc chồng nếu là nam mệnh. Nếu gặp cát tinh Tam Đài, Bát Tọa, Tả Phù, Hữu Bật, Thiên Khôi, Thiên Việt, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã, người này sẽ là nhất phẩm phu nhân, phú quý và vượng phu ích tử. Gặp Lộc, Quyền, Khoa tam hóa tinh củng chiếu mệnh Cung, người này có tính cách của người được sắc phong phu nhân.

Phụ nữ có Thái Dương nhập Miếu thường có tính cách hào sảng, cương trực và nam tính. Thích giành lấy quyền lực của chồng và khắc chồng. Nếu Thái Dương tại Tuất, Hợi, Tý nhập Mệnh, người này là góa phụ. Nếu gặp Tả Phù, Hữu Bật, Văn Xương, Văn Khúc, Thiên Khôi, Thiên Việt, Lộc Tồn, Hóa Lộc, Thiên Mã, Tam Đài, Bát Tọa và hội chiếu, người này sẽ là nhất phẩm phu nhân, phú quý và vượng phu ích tử. Nếu Thái Dương Hóa Kị, người này khắc chồng khi trẻ và khắc con khi già, nên kết hôn muộn hoặc làn vợ lẽ để giải quyết.

Nếu gặp Kình Dương, Đà La, Linh Tinh, Thiên Hình, Không, Kiếp, người này có hình khắc và thường là bậc thầy Phật giáo hoặc những người độc thân phục vụ xã hội. Tuy vậy, vì Thái Dương gặp sát tinh, tính cách của người này càng phải mạnh mẽ, trong sạch và hoàn hảo. Nếu Thái Dương lạc hãm, người này có thể mắc cận thị hoặc mắt nhỏ. Nếu gặp Phá Quân, người này sẽ không có một cuộc hôn nhân ổn định.

Phụ nữ có Thái Dương nhập Miếu đó là điềm lành, lạc hãm là điềm hung. Cổ nhân viết: “Nữ mệnh đoan chính Thái Dương tinh, tảo phối hiền phu tín khả bằng”. Tức là chỉ Thái Dương nhập Miếu mà sinh vào ban ngày càng có lợi. Lại nói: “Nữ mệnh Thái Dương hãm địa thất, lục thân hình khắc thư đái tật.” Là câu chỉ Thái Dương hãm địa mà người sinh vào ban đêm lại càng kém. Phụ nữ hiện đại có sự nghiệp của riêng mình, khi suy đoán nên nhìn vào tính chất của các sao để đánh giá tổng thể.

Nguồn: tuvinamphai.vn