Việt Nam Sử Lược

Sử là một cuốn sách không chỉ ghi lại những sự kiện đã qua mà còn suy xét nguồn gốc và căn nguyên của những công việc mà người ta đã làm. Cuốn sách này giúp hiểu rõ hơn về sự phát triển của một dân tộc và những khó khăn mà họ đã trải qua để đạt được vị trí trong xã hội.

Để yêu quê hương, người trong nước cần hiểu về lịch sử quê hương mình, phải cố gắng học hành và đóng góp vào xã hội mà tổ tiên đã xây dựng. Mọi dân tộc có sử sách riêng để ghi lại lịch sử của mình. Sử Việt bắt đầu từ thời nhà Trần vào thế kỷ thứ XIII. Từ đó, mỗi nhà vua lên ngôi đều trọng việc làm sử. Tuy nhiên, cách làm sử của Việt Nam theo phong cách biên niên của Trung Quốc. Điều này có nghĩa là chỉ ghi chép những sự kiện quan trọng mỗi năm mà không giải thích nguyên nhân và tương quan với các sự kiện khác.

Người làm sử thường là những quan chức, được vua phái để ghi lại lịch sử. Do đó, công việc ghi chép sử sách không tự do và thường thiên vị vua. Sử sách chỉ chú trọng vào những câu chuyện liên quan đến vua chứ không phản ánh sự tiến hóa của nhân dân trong nước. Việc này là do tư duy truyền thống cho rằng vấn đề quốc gia là vấn đề của vua. Vì vậy, sử sách Việt Nam thường chỉ nói về những vị vua đời đó. Việc này làm cho sử sách của chúng ta thiếu giá trị học tập.

Sự học tập của chúng ta và sự quan tâm của người dân đến lịch sử quê hương là quá nhỏ bé. Điều này có nguyên nhân từ việc chúng ta học lịch sử Trung Quốc mà không học lịch sử quê hương. Còn văn chương và thơ ca cũng dựa trên câu chuyện lịch sử Trung Quốc mà không nói đến vấn đề trong nước. Người dân công nhân chỉ quan tâm đến công việc hàng ngày, không cần phải biết về lịch sử quê hương. Điều này cũng là do chúng ta không có văn tự quốc ngữ, chúng ta chỉ học từ ngôn ngữ và chữ viết của người khác, mọi thứ đều bị tác động bởi người khác, không có điều gì đặc biệt. Vì vậy, ta thường nghe câu “Công việc nhà thì nhác, công việc chú bác thì siêng!”

Tuy nhiên, dù sao thì chúng ta cũng có sử sách của mình, từ đó ta biết được những sự kiện đã diễn ra trong quá khứ của đất nước và có thể nghiên cứu về tình hình quốc gia từ xưa đến nay. Mặc dù sử sách của chúng ta không được viết bằng chữ Nho, mà chữ Nho ngày càng ít người đọc, và trong nước cũng không có nhiều người biết về lịch sử quê hương, càng hiếm khi chúng ta có thể nghiên cứu về lịch sử chính xác trong tương lai. Ngày nay, giáo dục ở Việt Nam đã thay đổi, chữ quốc ngữ đã phổ biến trong nước, vì vậy chúng ta có thể viết về lịch sử quê hương bằng tiếng Việt. Đó chính là lý do tại sao chúng tôi soạn ra bộ “Việt Nam Sử Lược” để mọi người có thể dễ dàng đọc và hiểu lịch sử, làm cho việc học lịch sử trở nên thuận tiện hơn.

Bộ “Việt Nam Sử Lược” được chia thành 5 thời đại. Thời đại thứ nhất là thời đại cổ đại, bắt đầu từ thời kỳ Hồng Bàng cho đến hết triều đại nhà Triệu. Trong thời kỳ này, từ chương thứ III, chúng tôi trình bày về xã hội Trung Quốc trước nhà Tần, đa phần là những câu chuyện huyền hoặc. Những người viết sử trước đó cũng chỉ tuân theo truyền thống để viết lại, không có di tích nào để nghiên cứu chính xác. Tuy vậy, chúng tôi cũng trình bày theo sử cũ và đánh giá một vài câu để cho độc giả biết rằng những câu chuyện đó không nên coi là chính xác.

Thời đại thứ hai là thời đại Bắc thuộc, bắt đầu từ lúc vua Vũ Đế nhà Hán lấy đất Nam Việt của nhà Triệu cho đến đời Ngũ Quí, khi có họ Khúc và họ Ngô khởi nghĩa đòi độc lập. Trong thời đại này, lịch sử của chúng ta chỉ được ghi chép rất sơ lược. Bởi vì trong thời đại Bắc thuộc, người dân chúng ta chưa được văn minh, học hành còn kém, không có sách vở, cho nên những người viết sử của chúng ta không viết gì được về thời đại này, chỉ ghi lại từ sử của người Trung Quốc. Trong khi đó, người Trung Quốc thời đó vẫn coi mình là một vùng đất hoang dã biên giới, không ai quan tâm, cho nên những câu chuyện ghi trong sử sách cũng rất sơ lược và chỉ tập trung vào những chuyện về chính quyền và kẻ thù, chứ không nói đến các công việc khác trong thời đại Bắc thuộc kéo dài hơn một ngàn năm.

Thời đại thứ ba là thời đại tự chủ, bắt đầu từ nhà Ngô, nhà Đinh cho đến triều đại Hậu Lê. Chúng ta trở thành một quốc gia độc lập từ thời đại này, mặc dù vẫn phải kính xưng với Trung Quốc và đóng tiền cống, nhưng thực chất không ai xâm phạm quyền tự chủ của chúng ta.